Monday, February 6, 2023

Một ngày giữa thực và hư, dĩ vãng và hiện tại, quên và nhớ.

Từ hôm qua, trong đầu tôi bị quên lãng, tôi cho là lạ kỳ và có những thứ cũng kỳ lạ đến với tôi. Bắt đầu từ đâu?

Có một anh cựu học sinh Trường Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ, vài tháng trước, chính xác là ngày 20-11-2022, các cựu học sinh có họp mặt lấy danh nghĩa là Tri ân Thầy Cô nhân ngày Nhà Giáo Việt Nam, tôi có tham dự do cô cựu học sinh cùng họ nhận tôi là bố mời dự ở nhà hàng Đông Hồ đường Cao Thắng nối dài Q.10 Tp. HCM.

Trong buổi họp mặt có một số Thầy Cô giáo được mời tới dự, nhiều cựu học sinh tham dự, sau khi ra về tôi bỗng nhớ không có anh Tạ Trung Hiếu tham dự, khi về Mỹ hôm nào đó, tôi có gửi email hỏi Hiếu, Hiếu trả lời là hôm đó đi du lịch ở Hạ Long hay Nha Trang chi đó, tiếp theo đó trong tuần vừa qua, sau Tết Nguyên đán Quý Mão, tôi lại nhớ thường Hiếu đi dự luôn đi với 2 em cựu học sinh khác, tôi tự cho là bộ ba, khi đi dự thì có cả 3, mà khi vắng thì cả 3 cùng vắng mặt, nên tôi muốn email hỏi Hiếu 2 em kia tên là chi, nhưng tôi không nhớ địa chỉ email của Hiếu, thường như vậy mở phần email ra, gõ vào khoản To: tên của người mình muốn gửi email, máy sẽ trưng ra nhiều địa chỉ email có tên Hiếu, nhưng tuyệt nhiên không có của Tạ Trung Hiếu mà tôi muốn tìm.

Tôi phải email nhờ một anh ở Sàigòn tìm dùm cho tôi địa chỉ email của Tạ Trung Hiếu, may mà anh nầy có và đã cho tôi địa chỉ email của Hiếu, tôi đã liên lạc được và biết tên 2 anh kia do Hiếu cho biết là Tô Vĩnh Khoa và Trương Anh Dũng

Trong khi tìm địa chỉ email, có lúc tôi thấy bài hát Người ở lại Charlie của Trần Thiện Thanh, tôi gõ tìm Charlie rồi trên máy đưa tôi đến youtube của Tung Tăng Khắp Miền với Đồi Sạc Ly người nằm lại sau 50 năm Mùa hè đỏ lửa 1972 nay ra sao. Xem xong tôi thấy buồn quá, chiến tranh ở đó chỉ trong mấy ngày mà cả Nam, Bắc có chừng 500 quân nhân đã bỏ mình vĩnh viễn tại đó, trong đó có Thiếu Tá Nguyễn Đình Bảo Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 Dù và tôi nhớ tới nhà văn Phan Nhật Nam kể về anh chàng Thiếu Tá cố vấn Đỗ Phủ, tôi gõ tìm anh ta và đã thấy có Video Clip Trung Tá VNCH Nguyễn Đình Bảo người ở lại Charlie của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Người quay phim và thuyết minh rất rõ ràng và am tường về thời đó, đáng khen ngợi anh ta cũng như người đồng bào Dao đưa anh ta đi, họ đã đốt những nén hương tưởng nhớ cả binh sĩ miền Bắc và Nam.

Với Video Clip nêu trên, tôi lại đi tìm xem ông Đỗ Phủ (Duffy) ngày nay ra sao ? Tôi tìm thấy bài Tổng Thống Biden tặng huân chương cho 4 binh sĩ tham chiến tại Việt Nam, trong đó có cựu Thiếu Tá Duffy tại Nhà Trắng ngày 5-7-2022.

Với Trung Tá Nguyễn Đình Bảo với nhà văn Phan Nhật Nam, tôi nhớ đến Binh Chủng Nhảy Dù, có một em cựu học sinh của Trung Học Kỹ Thuật Nguyễn Trường Tộ là Lê Quốc Nam, em thi đậu vào Trường Kỹ Thuật Phước Tuy, rồi chuyển về Nguyễn Trường Tộ do Thầy Nguyễn Anh Dõng có người bạn là Thiếu Tá An Ninh của Binh Chủng Nhảy Dù xin chuyển trường, tôi cố nhớ mãi 2 ngày, chiều tối hôm qua tự nhiên tên anh ta bật ra trong trí tôi. Đó là Thiếu Tá Trực, sau nầy anh sinh sống ở Virginia, Mỹ, nay không rõ ra sao, còn Lê Quốc Nam hình như đã mất rồi.

Về Thiếu tá Trực, tiếc rằng tôi không thể nhớ họ của anh ta, nhưng tôi khó quên những chi anh ta đối với tôi. Chúng ta nhớ rằng trước 1975, Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn Dù đóng ở Vùng I, hình như ở Quảng Trị, Tư Lệnh là Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, thân phụ của em Lê Quốc Nam, thỉnh thoảng ông tướng về Sàigòn, anh Trực lại báo cho tôi biết là ông Tướng mời đi ăn, có khi ở nhà hàng Đại La Thiên trong Chợ Lớn, có khi tại Đệ Nhứt Khách Sạn ở Tân Sơn Nhất, nhưng vào tiệc anh Trực nói: “Xin lỗi vì ông Tướng bận không đến dự được, xin anh em cứ tự nhiên.”

Tôi không hiểu do đâu, trong máy vi tính tôi thấy có cái file PDF Hồi ký của Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng, nên tôi mở ra đọc vì nó chỉ có 7 trang. Tưởng nên đọc cho biết. Có một điều rất quan trọng mà Tướng Trưởng không viết ra, quyết chết mang theo.

Cũng trong thời gian nầy, tôi đọc những bài về Khe Sanh, về Đồi Charlie, tôi đọc  được bài Giữa thực và ảo: Thực tại núi rừng Khe Sanh và thế giới internet của Nguyễn Hữu Liêm đăng trên Trang Mạng báo Saigòn Nhỏ ngày 4-2-2023, bài viết đáng đọc, đáng suy gẫm giữa thực và ảo, giữa hiện tại và dĩ vãng như tôi đang liên lạc với Tạ Trung Hiếu, đọc Đồi Charlie với cố Trung Tá Nguyễn Đình Bảo tử trận tại đây ngày 12-4-1972, Thiếu Tá hồi hưu John J. Duffy được trao huân chương cao quý nhất nước Mỹ ngày 5-7-2022. Có kênh Hồi Ức Việt Sử với Video Clip Trung Tá VNCH Nguyễn Đình Bảo người ở lại Charlie của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, cho chúng ta thấy vì tinh thần đồng đội, khiến cho Thiếu Tá Duffy nhảy xuống lúc Thiếu tá Hải Ban 3 của Tiểu Đoàn 11 Dù, bị thương rớt xuống từ trên cao 3 mét, trong khi trực thăng đang bay lên.  

Mọi chuyện đan xen vào nhau.

 

Tạ Trung Hiếu, Tô Vĩnh Khoa, Trương Anh Dũng



866406022023

 

Wednesday, January 25, 2023

Manh Manh nữ sĩ

Manh Manh - Nguyễn Thị Kiêm (1914-2005)

Manh Manh hay Nguyễn Thị Manh Manh (chữ Hán阮氏萌萌) là một nữ sĩ Việt Nam thời tiền chiến. Theo tài liệu thì bà là người phụ nữ đầu tiên đã đăng thơ, viết bài, đăng đàn diễn thuyết hô hào cho phong trào thơ mới tại Việt Nam.

Nữ sĩ tên thật là Nguyễn Thị Kiêm (阮氏兼), sinh ngày 3 tháng 1 năm 1914 tại Sài Gòn, nhưng quê quán của bà ở tỉnh Gò Công (nay thuộc Tiền Giang). Bà là con gái thứ của Tri huyện Nguyễn Đình Trị, tục danh Huyện Trị, cũng là một cây bút trong làng báo lúc bấy giờ. Ông Trị từng là chủ huyện Lái Thiêu, Thủ Dầu Một, nghị viên hội đồng thành phố chung "sổ" (liên danh tranh cử) với giáo sư Nguyễn Văn Bá, chủ bút báo Công Luận thời Diệp Văn Kỳ, Thần Chung. Ông Trị cũng là "bầu" của đội bóng đá Ngôi Sao Xanh và sau đó đội Ngôi Sao Gia Định lừng lẫy một thời.

Thuở nhỏ học ở Gò Công, sau khi học hết bậc tiểu học, bà được theo học ở trường Collèges des jeunes filles indigènes: Trung học Thiếu nữ Bản xứ Sau đổi tên là Collèges des Jeunes filles Annamites de Saigon: Nữ Trung học An Nam Sàigòn. Thời đó nữ sinh trường nầy phải mặc đồng phục áo dài màu tím, nên người ta gọi là Trường Áo Tím, đến năm 1949 đổi tên thành Collège Gia Long, rồi Lycée Gia Long, sau 1975 đổi tên thành Trung học Nguyễn Thị Minh Khai.

Khoảng năm 1931-1932, sau khi tốt nghiệp bằng Thành chung ban Sư phạm (Cour de pedagorie hay Section Normal), bà được giữ lại trường để dạy học, nên gia nhập làng báo Sài Gòn. Bà thường xuyên cộng tác với tờ Phụ nữ tân văn ở Sàigòn do ông Nguyễn Đức Nhuận (1900-1968) làm Chủ nhiệm vợ ông bà Cao Thị Khanh (1900-1962) làm Chủ bút, và lần lượt viết cho các tờ báo khác như: Công luận, Nữ lưu...

Ban đầu bà chỉ là phóng viên thường, viết các mục nhỏ với bút hiệu YM, Nguyễn Văn MYM. Sau khi Phan Khôi đăng bài thơ Tình già (Phụ Nữ Tân Văn số 122 ngày 10-3-1932) thì tên tuổi bà sáng lên qua bút danh Nguyễn Thị Manh Manh hoặc tên thật khi ủng hộ Thơ mới và cổ vũ cho nữ quyền. Sau đó, nữ sĩ còn đăng đàn diễn thuyết cổ vũ cho phong trào này. GS.Phan Cự Đệ kể:


..."Cuộc tấn công của "thơ mới" vào "thơ cũ" ngày càng quyết liệt. Tối ngày 26 tháng 7 năm 1933, Nguyễn Thị Kiêm (tức nữ sĩ Manh Manh, khi ấy mới 19 tuổi) diễn thuyết tại Hội Khuyến học Sài Gòn về "Lối thơ mới". Hội này thành lập đã 25 năm mới có một buổi phụ nữ lên diễn đàn, mà cũng là buổi đông thính giả nhất. Hơn hai năm sau (tháng 11 năm 1935), Nguyễn Thị Kiêm lại diễn thuyết một lần nữa tại Hội Khuyến học Sài Gòn. Lần này, bà và ông Nguyễn Văn Hạnh cùng diễn thuyết tranh luận về "thơ mới"...

 

Không chỉ bảo vệ thơ mới, nữ sĩ Manh Manh còn là một chiến sĩ đòi giải phóng phụ nữ, bình quyền với nam giới. Đáng tiếc, cuối năm 1934, tờ Phụ Nữ Tân Văn đình bản, bà Kiêm mất chỗ dựa, phong trào cổ vũ Thơ mới và đấu tranh cho nữ quyền của bà bị xẹp xuống. Và bà trở thành một nhà báo bình thường cộng tác với một số báo đương thời. Sở trường của bà là phỏng vấn. Tuy vậy, bà cũng viết nhiều bài phê bình, ghi chép... TS. Phan Văn Hoàng viết: 


"Chị đả kích các tập tục hủ bại như trọng nam khinh nữ, tảo hôn, đa thê..., bênh vực những quyền lợi chính đáng của nữ giới. Trong năm 1934, chị đã đi tới 4 thành phố (Huế, Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng) để diễn thuyết các đề tài: "Dư luận nam giới đối với phụ nữ tiên tiến", "Một ngày của một người đàn bà tiên tiến", "Có nên tự do kết hôn chăng?", "Nên bỏ chế độ đa thê không"? Ý tưởng của chị trong các buổi diễn thuyết đó đã tạo ra trong xã hội hai luồng dư luận trái chiều (tán thành và phản đối) phản ảnh qua báo chí trong Nam ngoài Bắc..."
 

Năm 1936, nữ sĩ Manh Manh còn tích cực tham gia phong trào Đông Dương đại hội. Tuy mới 22 tuổi, nhưng nữ sĩ là một trong hai phụ nữ được cử vào Ủy ban lâm thời tổ chức Đông Dương đại hội tại Sài Gòn, bên cạnh các nhân vật nổi tiếng thời đó như Nguyễn An NinhTrịnh Đình ThảoNguyễn Văn TạoNguyễn Văn NguyễnTạ Thu ThâuPhan Văn Hùm... 

Ngày mồng 1 tháng 10 năm Bính Tý (tức 11 tháng 11 năm 1937), nữ sĩ thành hôn với ông Trương Văn Em, người Hà Tiên, một nhà giáo dạy Việt văn ở trường Trung học Huỳnh Khương Ninh, Sài Gòn, đồng thời cũng là một nhà báo với bút hiệu Lư Khê. Nhưng họ sống với nhau không lâu. Sau khi đứa con đầu lòng mất và bà không thể có con được nữa, hai người thỏa thuận chia tay.  

Nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt (em út Lư Khê, gọi nữ sĩ Manh Manh là chị dâu) kể:

..."Chị (Manh Manh) cư xử với nhà chồng rất tốt, được bên chồng yêu quý. Chị là thứ nữ của ông Huyện Trị, còn anh Lư Khê là con nhà nghèo ở Rạch Vược (Hà Tiên)...Song, chị không hợm mình, lúc nào chị cũng quý trọng người nghèo rất thật tình, không màu mè, không phân biệt giai cấp. Chị thường viết báo hoặc diễn thuyết bênh vực dân nghèo...Khi sinh bé Mi Nu, chị Kiêm bị sự cố không may, mất khả năng sinh sản. Năm sau, bé Mi Nu (bị liệt từ lúc mới sinh) qua đời...chị Kiêm vô cùng buồn, chị thỏa thuận cho anh có người khác...Đầu năm 1945, trước ngày Nhật đảo chính Pháp, anh Lư Khê có người vợ thứ hai... 

Theo TS. Phan Văn Hoàng kể chi tiết:  

"Đầu năm 1950, chị sang Pháp định cư. Bặt vô âm tín. Nhưng ở trong nước, tên tuổi và sự nghiệp của chị không bị lãng quên. Tháng 1 năm 1999, hai nhà nghiên cứu Thiện Mộc Lan và Thanh Việt Thanh cho xuất bản cuốn "Nữ sĩ Nguyễn Thị Manh Manh" (Nhà xuất bản Văn Nghệ TP. Hồ Chí Minh, 1999). Nhờ đọc cuốn sách ấy trong một chuyến về thăm quê hương, bà Bourbon Thi Hương (một Việt kiều ở Paris, bạn của chị) giúp nối lại liên lạc với chị. Nhận được cuốn sách có lời đề tặng của hai tác giả, chị xúc động nói: "Không ngờ nửa thế kỷ rồi mà những người bạn văn ở trong nước còn nhớ và viết về tôi". Lúc đó, chị đã 85 tuổi, đang sống trong nhà dưỡng lão ở Paris. Hơn 6 năm sau, chị trút hơi thở cuối cùng sau hơn nửa thế kỷ sống xa quê hương"  

Nữ sĩ Manh Manh qua đời trong một nhà dưỡng lão ở Paris vào ngày 26 tháng 1 năm 2005, thọ 91 tuổi. 

Tác phm: 

Nữ sĩ Manh Manh làm thơ rất ít, và chưa in tập thơ nào. 


Viếng phòng vắng, đăng báo Phụ nữ tân văn số Xuân, ra ngày 19 tháng 1 năm 1933.

Canh Tàn, trích trong bài diễn thuyết về Thơ mới tại Hội Khuyến học Sài Gòn ngày 26 tháng 7 năm 1933.

Hai cô thiếu nữ, đăng báo Phụ nữ tân văn1933.

Bức thư gửi cho tất cả ai ưa hay là ghét lối thơ mới, đăng báo Phụ nữ tân văn số 228, ra ngày 14 tháng 12 năm 1933.

Vấn đề Nữ lưu và Văn học. Đây là bài diễn thuyết, sau đăng báo Phụ nữ tân văn số 131, ra ngày 26 tháng 5 năm 1932. 

Giới thiệu một bài thơ mới của nữ sĩ

Trong cuộc diễn thuyết vào đêm 26 tháng 7 năm 1933 tại Hội Khuyến học Sài Gòn, nữ sĩ Manh Manh có "trưng ra làm điển hình" một bài thơ mới của mình như sau:

Canh tàn

Em ơi, nghe lóng nghe
Gió đêm thoáng qua cửa...
Lụn tàn một góc lửa,
Lạnh ngắt chốn buồng the.
Gió đêm thoáng qua cửa...
Não dạ dế tỉ te
Lạnh ngắt chốn buồng the...
Em ơi, khêu chút lửa.
Não dạ dế tỉ te
Gió ru! "...thiết chi nữa..."
Em ơi, khêu chút lửa
Rồi lại ngồi đây nghe.
Gió ru: "...thiết chi nữa..."
Sụt sùi mấy cành tre
Em ngồi đây có nghe
Tơ lòng chị đứt nữa.


Hình ảnh Manh Manh - Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết tại Hội Khuyến Học Sàigòn ngày 26-7-1933

Sự cổ vũ nồng nhiệt của nữ sĩ Manh Manh về "thơ mới", đã được Hoài Thanh-Hoài Chân kể lại trong cuốn Thi nhân Việt Nam (xuất bản năm 1941), như sau:

..."Từ hai tháng trước, hôm 26 juillet (tháng 7) 1933, một nữ sĩ có tài và có gan, cô Nguyễn Thị Kiêm, đã lên diễn đàn Hội Khuyến học Sài Gòn thành lập đến bấy giờ đã 25 năm. Lần thứ nhất một bạn gái lên diễn đàn và cũng là lần thứ nhất có một cuộc diễn thuyết được đông người nghe như thế"...

Ghi nhận công lao của nữ sĩ, trong Việt Nam thi nhân tiền chiến (quyển thượng) có đoạn:

..."Trong hồi dậy men của nền thơ mới, nữ sĩ Manh Manh là người đàn bà đầu tiên đáp ứng tiếng gọi đàn của nhà tiên phong Phan Khôi...Chúng ta ngày nay nhìn lại việc qua, giữa cái cũ kỹ từ nghìn đời sừng sững như cổ thành kiên cố; thế mà, bỗng chốc, một Phan Khôi táo bạo nổ phát súng cách mạng thi ca; người nữ chiến sĩ tiền phong anh dũng và hăng say hoạt động để bảo vệ và củng cố nền tảng thơ mới bén rễ và sống mạnh, ta phải kể Nguyễn Thị Manh Manh, một tay đã đóng góp công lao không nhỏ cho nền văn học đất nước .

Tài liệu tham khảo:

- Manh Manh Web: vi.wikipedia

866424012023





 

Friday, January 20, 2023

Không tìm mà được

Cách nay khá lâu, khi tôi soạn bộ Văn Học Miền Nam 1823-1954, trong đó có phần viết về nhà văn Tân Dân Tử - Nguyễn Hữu Ngỡi (1857-1955), tại Thủ Đức Gia Định, lúc đó tôi đưa bài nầy lên Mạng, có một độc giả, lâu ngày tôi quên tên cũng như địa chỉ Điện thư của anh ta, tôi nhớ anh ta có cho biết cư ngụ gần Lăng Cha Cả, anh ta gửi cho tôi tấm ảnh của tác giả Tân Dân Tử, tôi rất vui vì bài mình viết có hình tác giả. Anh nầy còn cho biết, tôi có cần thê6m hình nữa không, nếu tôi cần, anh ta sẵn long đi sang Gia Định sưu tầm them. Tôi nghĩ là không cần, nên cám ơn anh ta, bây giờ mới thấy tiếc, tự hỏi sao lúc ấy không nhờ anh ta sưu tập thêm vài tấm hình để làm tài liệu!

Tân Dân Tử - Nguyễn Hữu Ngỡi (1857-1955)

Ây là tấm ảnh đầu tiên tôi có đã đưa vào bài viết, sách của tôi và trên Mạng lúc bấy giờ khoảng cuối thập niên 1990 hay đầu thập niên 2000.

Hôm qua, tôi vào máy lục tìm hình chi đó, bổng dưng trong Thư mục của năm nào đó, hình như năm 2021 có hình của nhà văn Lê Hoằng Mưu, tác giả Hà Hương Phong Nguyệt bị nhà báo Nguyễn Háo Vĩnh phê bình là dâm thư.

Lê Hoằng Mưu (1879-1941)

Cũng từ lâu tôi không có ảnh của tác giả Biến Ngũ Nhy tức là Nguyễn Bính (1876-1973), là bác sĩ xuất thân từ Trường y Hà Nội năm 1910. Ông là tác giả những quyển sách:  - Kim Thời Dị Sử (Imp. Moderne L. Héloury S. Moutégout, 1921),  Biến Ngũ Nhy thi tập (tác giả xuất bản, 1967), Chủ nợ bất nhơn, Phong tình bịnh chứng,  Nam nữ hôn nhân, Sanh dục vệ sinh.

Biến Ngũ Nhy - Nguyễn Bính (1886-1973)

Ngoài ra tự nhiên tôi thấy có bài viết về Lư Khê, Lư Khê được cho là Hà Tiên tứ tuyệt. Đó là Đông Hồ - Lâm Tuấn Phác (1906-1969), Mộng Tuyết – Thái Thị Úc (1914-2007) , Trúc Hà - Trần Thiêm Thới (1909-194X) và Lư Khê Trương Văn Em (1916-1950)

Lư Khê - Trương Văn Em (1926-1950)

Lư Khê tên thật là Trương Văn Em còn được gọi là Đệ, tên chữ là Tuấn Cảnh, bút hiệu là Bá Âm, Lư Khê; là nhà thơ, nhà báo Việt Nam thời tiền chiến.

Ông sinh ngày 20 tháng 1 năm 1916 (nhưng trong giấy khai sinh ghi là ngày 5 tháng 2 năm 1916, vì làm giấy trễ) tại làng Rạch Vược, xã Thuận Yên, tỉnh Hà Tiên (nay thuộc thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang) trong một gia đình lao động nghèo. Thân sinh là ông Trương Văn Huynh (ngư dân) và bà Trần Thị Chín.

Thuở nhỏ, Trương Văn Em học tiểu học ở Hà Tiên, học trung học ở Cần Thơ (Collège de Cần Thơ), đậu bằng Thành chung năm 1928 rồi lên Sài Gòn lập nghiệp.

Ở Sài Gòn, ông dạy học tại trường Huỳnh Khương Ninh, Đồng Nai...và cộng tác với các báo: Thế giới tân văn, Nữ lưu tuần báo, Văn nghệ, Tự do, Nay, Đông Tây, Gió mùa...

Năm 1935, ông cùng với Đông Hồ, Mộng Tuyết, Trúc Hà, cả bốn người đều được mệnh danh là "Hà Tiên tứ tuyệt", xuất bản tờ báo Sống ở Hà Tiên, nhưng phát hành ở Sài Gòn. Đây là một tờ báo thuộc loại sớm nhất ở miền Tây, và cũng là tờ báo tiến bộ nhất so với các báo khác thời đó.Trước đó có tờ An Hà Nhựt Báo phát hành tại Cần Thơ.

Trong môi trường văn học, ông yêu nữ sĩ Nguyễn Thị Manh Manh.

Sau năm 1945, Lư Khê làm Chủ bút báo Tân Việt. Từ năm 1947-1950, ông làm Giám đốc kiêm Chủ nhiệm nhật báo Sự thật  Ánh sáng. Lúc này, ông là người theo "chủ trương thống nhất và độc lập dân tộc, đồng thời đấu tranh chống thực dân Pháp".

Ngày 3 tháng 7 năm 1950, ông bị những kẻ lạ mặt (dư luận cho là nhóm báo phân ly của chính phủ Trần Văn Hữu) sát hại tại nhà riêng, cùng một ngày với nhà báo Nam Quốc Cang. Khi ấy, Lư Khê mới 34 tuổi.

Qua đây còn được biết thêm, ông và thi sĩ Manh Manh - Nguyễn Thị Kiêm con ông huyện Nguyễn Đình Trị đã thành hôn vào ngày 11-11-1937, sau đó nữ sĩ sinh con rồi con mất, bà bị tuyệt tự, nên đầu năm 1945 nữ sĩ bằng lòng cho Lư Khê bước thêm bước nữa với cô Nguyễn Thị Diêu. Còn nữ sĩ khoảng đầu năm 1950, qua Pháp sinh sống, rồi mất nơi nhà dưỡng lão vào ngày 26-1-2005, thọ 91 tuổi.

Manh Manh - Nguyễn Thị Kiêm (1914-2005)

Trong buổi nói chuyện về Thơ Mới ở Hội Khuyến Học Sài Gòn ngày 26 tháng 7, năm 1933, Thi sĩ Manh Manh đọc bài Thơ Mới của bà:

Canh tàn

Em ơi, em lắng nghe
Gió đêm thoảng ngoài cửa
Lụn tàn một góc lửa
Lạnh ngắt chốn buồng the.

Gió đêm thoáng qua cửa
Não dạ dế tỉ tê
Lạnh ngắt chốn buồng the
Em ơi, khêu chút lửa

Não dạ dế tỉ tê
Gió ru tha thiết chi nữa
Em ơi, khêu chút lửa
Rồi lại ngồi đây nghe

Gió ru tha thiết chi nữa
Sụt sùi mấy cành tre
Em ngồi đây có nghe
Tơ lòng chị đứt nửa.  

Đôi khi chúng ta cố tìm mà không được, nhưng có lúc không tìm lại được. tôi vội vàng đem những hình nầy vào sách của tôi để cho được đầy đủ hơn.

866420012023





Friday, April 17, 2020

VỀ VIRUS COVID-19


Bài viết của Dr. Phan Xuân Trung.

ĐÂY LÀ BÀI VIẾT RẤT KHOA HỌC VÀ ĐẦY LẠC QUAN CỦA BS. PHAN XUÂN TRUNG – Đại Học SaiGon VỀ VIRUS COVID-19:

Việc lây nhiễm bằng cách người này phun nước bọt vào người kia thì không thể lây lan nhanh và nhiều được.  Thực tế là vi khuẩn Corona tồn tại được trong không khí, dưới dạng sương mù, trong những giọt nước rất nhỏ lơ lửng trong không khí, chờ người ta hít thở thì theo luồng hơi thở mà bay vô mũi, họng.  Dù cho bạn có đeo năm bảy lớp khẩu trang, hễ mà bạn còn thở thì nó còn có cơ hội xâm nhập. Đó là điều chắc chắn.   Đừng quan tâm đến giọt to, giọt nhỏ gì hết. Biết cái đó cũng vô ích. Cứ còn thở là còn khả năng dính virus. Do đó ở những quốc gia lạnh lẽo, mù sương, không gian kín, showroom, phòng họp gắn máy lạnh, xe điện ngầm, xe hơi, xe bus, trong máy bay, cafeteria, siêu thị máy lạnh... chính là môi trường lý tưởng cho virus rong chơi và lây lan.  Tóm lại, ở những chốn bít bùng, nơi gió ngoài trời không vào được nhiều, là nơi lý tưởng cho chúng làm ổ.

Hãy cám ơn Trời Đất vì Việt Nam ta thuộc xứ nóng, khô ráo, không có mù sương để dung chứa bọn virus trong không khí. Trừ những trường hợp người mang mầm bệnh mới nhập khẩu từ vùng dịch về, hỉ chưa sạch mũi, ho chưa sạch đàm, vi rút còn bám trong cổ, trong mũi thì có khả năng lây. Còn thì virus sẽ tự động tiêu biến trong môi trường không khí ở Việt Nam, nhất là từ miền Trung đến miền Nam.

Nhắc lại không thừa:

1. Tiêu diệt không gian sống của virus: nắng, gió, muối biển... Phòng ốc phải mở cửa và xài quạt xoay. Không được đóng cửa và mở máy lạnh dù trời nóng.  Trong không gian này, bảo đảm với bạn tìm không ra một nửa con virus.  Nếu ở gần biển thì tắm biển, nếu không gần biển thì phơi nắng tối thiểu 10 phút.

 2. Phá "ổ đẻ" của virus bằng cách vệ sinh mũi, họng, miệng. Giả dụ bạn lỡ có hít trúng một lượng virus vào mũi, nó sẽ phải tạm trú vùng mũi họng một thời gian để làm ổ trong tế bào niêm mạc khoảng năm bảy ngày, sinh sôi nảy nở, nhân bản dân số lên trăm tỷ con mới. Virus phải chui vào tế bào ký chủ, mượn bộ máy nhân bản Gen của tế bào để sản xuất virus mới. Đây mới chính là sự ghê gớm của virus. Thời gian ủ bệnh này khá lâu và nó ẩn náu ở vùng mũi họng.  Do đó bạn phải làm sạch mũi họng bằng cách hỉ mũi, ho, khạc, súc họng bằng đủ loại nước sát trùng, nhỏ mũi, nước muối, xịt họng... để tống khứ đám cô hồn virus ra khỏi mũi họng dù rằng không thấy nó đâu. Tất nhiên khi ra ngoài không khí nó sẽ chết.

3. Cũng làm sạch mũi họng, nhưng bằng cách xông hơi. Xông bằng lá xông, tinh dầu, sauna, steam bath...  Hơi nước và độ nóng đó sẽ vào mũi, họng, kích thích tăng tiết chất nhầy, chất nhờn, phá ổ vi rút... Những tế bào niêm mạc mũi đang làm ổ cho virus bị hư hại do hơi nóng của nước cũng đồng thời phá ổ sản xuất của siêu vi. Do vậy cho người già một nồi lá xông là ô kê. Thanh niên thì cứ tắm hơi, steam bath, sauna...

Ông bà ta từ xưa không biết virus là gì, chỉ biết bị mắc dịch, mắc gió, bị trúng gió độc... và có đối sách bằng cách điều trị dân gian là nồi lá xông cực kỳ hữu hiệu.

4. Ăn uống lành mạnh nhiều vitamin, nhiều acid amin để tăng cường sức đề kháng.  Uống nhiều nước lá xả, lá chanh, gừng... để làm ấm cơ thể.  Virus ưa ẩm ướt và lạnh.

Tâm đa rng rãi bao la như Tri Đt thì bao bc được c muôn loài.
(Hàn Thi Ngoi Truyn)
Trường Sơn Lê Xuân Nh