Gs Trần Kiêm Đoàn
Khác hẳn với tất cả các hệ thống triết
lý và tôn giáo trên thế giới, Đạo Phật – tự bản chất lẫn hiện tượng – vừa là
một hệ thống triết lý mà cũng vừa là một hình trạng tôn giáo hoàn chỉnh với sự
kết hợp hài hòa giữa tín điều và tín lý.
Giữa cuộc đời, đức Phật là một vị Thầy hóa độ; trong đức tin, đức Phật
là một đấng Giác Ngộ chứng tri. Người
theo đạo Phật là những người luôn luôn tỉnh thức để làm chủ lấy mình , không
giao trọn số phận của mình cho sự định đoạt của một đấng quyền năng tuyệt đối
nào cả. Tuy cùng là Phật tử, nhưng không
ai giống ai hoàn toàn về mức độ thuần thành và sở đắc giáo pháp trong quá trình
hộ đạo và hành đạo vì mỗi cá nhân còn phải tùy thuộc vào căn cơ, trí tuệ, hoàn
cảnh... trùng trùng duyên nghiệp khởi và động không ngừng của chính mình. Bởi vậy, không ai có thế “tu thay” hay “lãnh
thế” nghiệp duyên của tha nhân như thường thấy trong các tôn giáo khác.
Phật giáo là chiếc cầu tượng trưng và
tiêu biểu giữa Tam Bảo và cuộc đời thường; giữa hàng xuất gia và quần
chúng. Nhưng thế nào là chân dung của
một ngưởi Cư sĩ Phật giáo điển hình và tiêu chí nào để thành người Cư sĩ? Đâu là sự khác biệt giữa một người Cư sĩ Phật
giáo và một Phật tử “bình thường”?
Định nghĩa danh từ Cư sĩ:
Trong hệ thống xã hội cổ điển Đông
Phương, Cư Sĩ thường được định nghĩa như là người có tài năng nhưng không ra tham gia việc nước hay dấn thân vào
việc đời, sống mai danh ẩn tích ở chốn thâm sơn hay điền dã (Cư: ở. Sĩ: kẻ sĩ).
Nói về nguồn gốc thì sách Cải Trai Mạn
Lục của Ngô Tăng Năng ghi rằng: “Danh hiệu Cư sĩ có từ thời Thương Chu”. Sách Hàn Phi Tử chép: “Thái Công được phong
ở đất Tề. Ở Đông Hải có hai cư sĩ là
Cuồng Duật Hoa và Sĩ Tì Đệ can rằng: “Ta không nên thần phục Thiên tử, không
giao hữu với chư hầu, chỉ nên cày ruộng mà ăn, đào giếng mà uống.” Như vậy, từ thơi xa xưa Cư sĩ là người sống
rất độc lập, thanh đạm (gần với hàn sĩ) và sống ẩn dật (ẩn sĩ).
Trong Phật giáo thì Cư sĩ (Kulapati)
là người học Phật tại gia. Sách Xuyết
Canh Lục có ghi: “ Người học Phật đời nay phần nhiều tự gọi mình là Cư Sĩ. Khảo trong Lục Kinh thì chỉ có sách Lễ Ký có
danh từ Cư Sĩ Cẩm Đới (cư sĩ đai gấm), nhà chú giải ghi là vị cư sĩ có đạo
nghệ.” Sách Duy Ma Kinh Sớ của Tuệ Viễn, quyển 1, nói rõ hơn về khái niệm Cư
sĩ: “Cư sĩ có hai loại: Một loại tích lũy được nhiều của cải (cư tài cư sĩ),
gọi là cư sĩ. Một loại là tu Đạo tại
gia, tức là Cư gia đạo sĩ cũng gọi là cư sĩ.”
Phụ nữ cũng có thể gọi là cư sĩ , tức Nữ cư sĩ. Trong các sách Thiền Lục thường có danh hiệu
ấy.
Đệ tử đầu tiên của đức Phật Thích Ca
là Cư sĩ. Ngay khi ngài vừa mới thành
Đạo dưới cội Bồ Đề, có hai thương khách từ Phương Nam đến, đó là Bà Ha Lệ Ca
(Bahallika) và Trà Phú Sa (Trapusha) chiêm ngưỡng dung mạo quá uy nghi của Phật
tỏa trong ánh hào quang rạng ngời, bèn đến đảnh lễ và dâng đức Thế Tôn phẩm vật
cúng dường. Đức Phật mĩm cười, đặt tay
lên đầu hai người thọ nhận quy y và truyền giới. Đó là hai Ưu Bà Tắc (Upasaka, tiếng Phạn có nghĩa
là đệ tử nam giới) đầu tiên của Phật giáo.
Sau khi quy y Tam Bảo, đức Phật truyền năm giới (Ngũ Giới): Không sát sanh, không trộm cướp, không tà
dâm, không nói dối và không uống rượu.
Theo lời Phật dạy thì sau khi quy y Tam Bảo và thọ Ngũ Giới rồi, hai đệ
tử nầy có thể ở tại nhà tiếp tục cuộc sống bình thường để tu học. Sau đó không lâu tại vườn Lộc Uyển, đức Phật
cũng thọ nhận quy y, truyền giới và khuyên tu tại gia cho vị Ưu Bà Di (Upasika:
Nữ đệ tử) đầu tiên trong lịch sử Phật giáo.
Giới Cư sĩ Phật giáo đã hiện diện từ
những ngày đức Phật Thích Ca chưa chuyển pháp luân dưới gốc Bồ Đề, trong vườn
Lộc Uyển, nhưng giới Phật tử vẫn còn rất ít người tự nhận mình là Cư sĩ (cách
gọi Việt Nam); là Thiện Nhơn, hay Cận Sự Nhơn (như thường thấy danh xưng Thiện
Nam hay Cận Sự Nam theo cách gọi của Trung Hoa). Có lẽ vì chữ “Sĩ” đã làm cho nhiều người tự cảm thấy danh xưng Cư sĩ mang một ý
nghĩa đặc biệt tương tự nào đó như kẻ
sĩ, hiền sĩ... có vẻ xa cách với “người thường”!
Thật ra tự nguồn gốc, cư sĩ là một
người hiểu biết, sống có nhân cách, trách nhiệm và bổn phận với bản thân, gia
đình, người thân và xã hội ; có tinh thần cầu tiến bộ trong ý hướng học đời,
học đạo làm người. Cư sĩ, nói chung, có
thể là một người chẳng liên quan gì đến tôn giáo hoặc chỉ có khuynh hướng về
tôn giáo mà thôi. Nhưng Cư sĩ Phật giáo,
trước hết phải là một Phật tử. Vì vậy,
bất cứ một người nào theo Phật giáo có quy y Phật, Pháp, Tăng (Tam Bảo), có chuyên tâm giữ giới (Ngũ giới) và có ý
thức hành thiện (Thập Thiện), tu học tại gia đều có thể gọi là Cư sĩ Phật giáo,
không phân biệt hoàn cảnh xuất thân hay địa vị xã hội. Đạo Phật là đạo bình đẳng. Người theo đạo
Phật lấy cái Tâm Bồ Đề làm gốc, nên Chân Tâm là chủ đạo, là cốt lõi tinh yếu,
là giá trị tuyệt đối của người Phật tử.
Thời đức Phật còn tại thế, xã hội
Ấn Độ sinh hoạt riêng trong cung đường của giai cấp. Giai cấp cùng đinh Chiên Đà La, chuyên nghề
hạ tiện gánh phân có thể bị giết vì lầm lỡ đạp trên cái bóng của giai cấp
thượng đẳng quý tộc của hàng vua quan Sát Đế Lỵ. Giai cấp tu sĩ Bà La Môn có quyền phán quyết
tối cao trên thân phận của giai cấp thương gia, học sĩ Trưởng Giả và giai cấp lao động Thủ Đà
La. Thế nhưng đạo Phật đã dung hóa được
giai cấp vì đức Phật không căn cứ vào giả tướng mà nhìn thấu suốt bản lai diện
mục của chúng sanh để tìm thấy Phật tánh trong từng cá thể. Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ và
nước mắt cùng mặn.
Nói một cách đơn giản và đại chúng hơn
thì Cư sĩ Phật giáo là những Phật tử
chuyên tu học tại gia.
Vai trò truyền thống của người Cư sĩ
Phật giáo (CSPG)
Để góp phần minh họa chân dung và vai
trò đa dạng trong quá trình tu hoc của người CSPG, người xưa có nói rằng:
Khó nhất là tu tại
gia,|
Thứ nhì tại chợ, thứ ba tại chùa.
Thứ nhì tại chợ, thứ ba tại chùa.
Tu tại gia thường được coi là khó nhất
vì cùng lúc, người CSPG phải đóng trọn hai vai trò: Vai trò đối với Đời và vai trò đối với Đạo.
Theo Hòa thượng Thích Thiện Hoa thì
cái danh của người CSPG có đến năm chữ:
“Người + Phật tử + Tại gia”. Đó
là chưa kể người Phật tử tại gia ấy còn có những danh vị và trách nhiệm khác
như: Công chức, giáo sư, chủ tiệm...
Vai trò đối với đời: Bao gồm những bổn phận và trách nhiệm đối với
tự thân, đối với gia đình quyến thuộc, đối với mọi người, đối với quốc gia và
xã hội. Vai trò đối với đời là một sự
thử thách thường xuyên, có tác động trực tiếp và mạnh mẽ để tạo điều kiện thuận
lợi hay trở lực cho vai trò đối với Đạo.
Trong giới hạn nhất định của cuộc đời thường thì mọi người đều chỉ có
mỗi ngày 24 giờ để sống. Giữa hai hạng
người cực đoan – Hoặc không có gì để
làm; hoặc làm tới khi chết rồi mà vẫn chưa hết công việc – là những người điều khiển được con ngựa thời
gian bất kham. Thực tế đã chứng minh
rằng, giữa dòng cuộc sống tất bật và trôi chảy không ngừng, nếu biết sắp đặt sẽ
không có sự mâu thuẫn hay xung đột nào
giữa việc đời và việc đạo như những kẻ sĩ xưa thường nói: “Hành tàng bất nhị kỳ
quan” (Gánh vác việc đời hay rút lui ẩn dật không phải là hai trạng thái tách
rời nhau). Trong tinh thần đó, người
CSPG luôn luôn có khả năng tạo được thế quân bình giữa hai vai trò đối với đời
và đạo.
Khi nói đến sự bức xúc của tâm lý tham
gia công tác phục vụ cộng đồng, nhà xã hội và Tâm lý Mỹ, Thomas Wagner, đã phát
biểu rằng: “Làm việc thiện nguyện cũng như tham gia sinh hoạt tôn giáo cần phải
làm ngay trong điều kiện có sẵn hiện tại (right here, right now). Đừng đợi, vì ngày mai cũng như ngày hôm nay. Sự đợi chờ có khi sẽ trở thành quá muộn vì
không ai nắm chắc rằng, ngày mai họ sẽ còn hiện hữu hay không...” Vai trò người CSPG cũng tương tự như thế. Nếu chờ đến lúc về hưu; chờ đến khi con cháu
thành tài; chờ đến khi nợ cái nhà, chiếc xe trả hết mới có điều kiện tham gia
công tác chùa chiền, tu học... thì có khi sẽ lâm vào cảnh “mai ăn khỏi trả
tiền” và cái ngày mai đầy hứa hẹn đó có thể sẽ không bao giờ thành hiện thực.
Tu tại gia khó nhất... là một thực tế
hiển nhiên, nhất là đối với quý vị chưa đến lứa tuổi “lão giả an chi” còn phải
bôn ba với cuộc sống. Vật lộn với nợ áo
cơm đã khó, thỏa mãn hết các món nợ đời, nợ danh, nợ tiếng... lại càng khó
hơn. Bên cạnh nỗ lực nhằm thỏa mãn những
nhu cầu căn bản của đời sống thường nhật, còn sắp xếp được hoàn cảnh và thời
gian để tu học, tham gia công tác hộ đạo và hành đạo... đòi hỏi người CSPG một
tín tâm kiên cố và một chí tu học bền bĩ mới tránh được cảnh tu học chợ chiều
như Nguyên Phong than thở trong một bài thơ vui đăng ở báo Liên Hoa: “Xuân Thu
tu học nhị kỳ, mỗi năm mỗi vắng còn gì là tu !”
Không phải chỉ có trong thời đại mới
hay trong hoàn cảnh lưu cư ở xứ người, giới CSPG mới phải đối diện với sự khó
khăn của hoàn cảnh. Giới luật căn bản
của Phật giáo từ xưa đã căn cứ trên hoàn cảnh đặc biệt khó khăn của người tu
tại gia để quy định những điều luật khả thi cho Phật tử tại gia và xuất
gia. Nếu là xuất gia thì tùy theo trình
độ và quá trình tu học để thọ giới. Như
có 10 giới dành cho người mới xuất gia (Sa Di và Sa Di Ni), 250 giới dành cho
Tỳ Kheo và 340 giới cho Tỳ Kheo Ni đã xuất gia trên 10 năm và có trình độ thọ
giới đầy đủ. Trong khi đó, chỉ có 5 giới
dành cho người Phật tử tại gia.
Tuy sự hưng thịnh của một tôn giáo
không nhất thiết tỷ lệ thuận với số lượng tín đồ, nhưng rõ ràng là khối quần
chúng tín đồ đóng một vai trò chủ lực và sinh động trong sinh hoạt tôn
giáo. Trong sinh hoạt của Phật giáo tịnh
độ, giới CSPG là chỗ dựa của Tam Bảo như Thiền sư Thích Thanh Từ khẳng định
trong tập sách Trách Vụ Phật Tử Tại Gia, rằng: “Truyền bá Phật giáo được phổ
biến, linh động trong quần chúng do Phật tử tại gia thực hiện”. Bởi vì theo Thiền sư thì làm Phật sự chính là
làm “sống dậy lời Phật dạy” chứ không phải bị dính chặt vào những phương tiện
tạm thời trợ lực cho việc hoằng dương chánh pháp như cúng chùa, cất chùa, trai
nguyện, công quả v.v... Cũng trong tác
phẩm vừa nêu dẫn, Thiền sư viết tiếp: “Nếp sống của người xuất gia cao siêu
cách biệt quần chúng quá, dù cố gắng cách mấy cũng khó ảnh hưởng lây. Vì thế, Phật tử tại gia có trách nhiệm làm
linh động và sống dậy tinh thần Phật giáo qua nếp sống cá nhân và gia đình
mình.”
Vai trò hộ đạo của người Cư sĩ Phật
giáo.
Quy y Tam Bảo không phải là một hình
thức “lễ thánh” để từ đó, người quy y sẽ trở thành một tín đồ ngoan đạo, giao
trọn tâm linh và số phận của đời mình cho một đấng thiêng liêng toàn năng định
đoạt, vì đức Phật không phải là một vị thần linh. Quy y là tự nguyện chọn cho mình một hướng
đi, đặt cho mình một lý tưởng để nhắm đến:
Phật là mục tiêu của lý tưởng để nhắm đến. Pháp là đường lối, là phương tiện cần thiết
để tiến đến được mục tiêu lý tưởng đó.
Và Tăng là người dẫn đường đáng tin cậy để hướng dẫn người học Phật định
hướng và tiến vững bước trên con đường tìm đến mục tiêu. Do đó, sự liên lạc giữa người Phật tử với Tam
Bảo cũng cần thiết như người vượt biển trong sương mù cần phải có hải đăng, ghe
thuyền, hướng đi để tới bờ. Hay cũng
như cá nhân cần phải có sự liên lạc với
gia đình và xã hội. Là một thành viên
trong tứ chúng, là một cá thể trong cộng đồng, người CSPG có một trách vụ trực
tiếp, thường xuyên và tích cực trong tiến trình hộ đạo và hành đạo.
Khác với các bậc tu hành đã xuất gia,
người Phật tử tại gia mỗi người có riêng một hoàn cảnh bản thân và gia đình
khác nhau. Hoàn cảnh nầy có khi là thuận
duyên mà cũng có khi là nghịch duyên có ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến sự
tu học của người Cư sĩ Phật giáo. Bên
cạnh đại đa số Phật tử tại gia, tạo được sự hài hòa song hành giữa việc đời và
việc đạo, vẫn có hiện tượng thiếu quân bình giữa hai khuynh hướng gần như cực
đoan của một thiểu số Phặt tử. Khuynh
hướng “thái quá”: Bất chấp những nhu cầu
cấp thiết của gia đình và quay lưng với trách nhiệm xã hội, rủ bỏ tất cả để đến
chùa, sử dụng toàn thời gian để lo việc chùa chiền Phật sự. Khuynh hướng ngược lại là “bất cập”:ø Tuy có
tín tâm nhưng không đến chùa, luôn luôn tìm cách biện minh cho thái độ xa cách
Tam Bảo của mình bằng những khái niệm sáo mòn như : “Phật tức tâm. Tu đâu cho bằng tu nhà... và v.v...” Cả hai khuynh hướng thái quá và bất cập đều
là những chướng ngại trên con đường tu học của người Phật tử tại gia.
Đã có quá nhiều sách vở, bài bản, ý
kiến của chư tôn đức, các học giả, Cư sĩ Phật giáo trình bày, tham khảo và
nghiên cứu về vai trò tu và hành của người Phật tử tại gia. Trong phần tham luận rất giới hạn này, người
trình bày sẽ không làm công việc tóm tắt hay liệt kê và lập lại một cách có hệ
thống hoặc tản mạn những điều nên làm hay không nên làm đã được ghi thành bài
bản trong sách vơ nói về vai trò của người Cư sĩ Phật giáo mà chỉ xin đưa ra
những ý kiến rất khiêm tốn của mình để làm cơ sở thảo luận. Tinh thần triết học Phật giáo rất thoáng đạt
và mềm dẽo. Có khi còn mang tính
chất “phủ định nhất quán” như Bồ tát
Long Thọ đã tập đại thành Bát Nhã Ba La Mật để phủ nhận luôn cả nguyên tắc đầu
tiên và cơ bản nhất trong nhân sinh quan của Phật giáo như Tứ Diệu Đế, Bát
Chánh Đạo... Nhưng phủ nhận như khép cánh cửa sổ để mở ra khung cửa rộng của
một sự xác tín về hành trình tất yếu trên con đường đưa đến giác ngộ và giải
thoát sau cùng. Bởi vậy, ngôn từ dầu có
hoa gấm tới đâu; cơ sở lý luận dù có vững chãi tới mức nào; luận điểm có sức
thuyết phục đến mấy... thì cũng chỉ là phương tiện nhất thời rất tương đối và
phù du để đư a đến sự im lặng của Chánh
Pháp; sự vô ngôn của giác ngộ và giải thoát.
Trong tinh thần học Phật thoáng rộng
và đầy tâm đạo đó, chúng ta thử cùng
nhìn vào hoàn cảnh thực tế để có thể được hay chăng, cùng bàn thảo một vài ý
niệm đề cương về vai trò hộ đạo của người Cư sĩ Phật giáo:
1.Vai trò xây dựng cơ sở vật chất.
Khi hướng về Tam Bảo, khuynh hướng
truyền thống phổ biến nhất của giới Phật tử tại gia là nghĩ đến mái chùa và
hình ảnh quý Thầy, quý Ni sư . Tuy động
cơ tâm linh của Phật tử đến chùa có khác nhau về cách nhận thức và mức độ thể
hiện, nhưng tất cả đều có một gốc rể chung là Tín Tâm hay lòng tin kính vào Đức
Phật và giáo lý cứu khổ, độ sanh của Ngài.
Thế giới tâm linh riêng tư của từng cá nhân thường có điều kiện khai mở
và un đúc trong khung cảnh thờ tự trang nghiêm của chùa chiền và tu viện, dưới
sự dìu dắt tinh thần của Tăng, Ni. Ngôi
chùa, vì vậy, không chỉ là ngôi nhà thờ tự mà còn là một thế giới thu gọn của
một cộng đồng của những người có chung Niềm Tin.
Trong những xã hội kỹ nghệ và cường
quốc kinh tế Tây Phương, nhất là tại Mỹ, rõ ràng có một sự quan hệ hổ tương
theo tỷ lệ thuận giữa cuộc sống vật chất và đời sống tinh thần. Đời sống kinh tế gia đình và vật chất xã hội
càng phong phú thì chùa chiền và tu viện được xây dựng càng nhiều. Và đây cũng chính là “ngọn lửa thử vàng” để
trắc nghiệm cho cái Tâm Bồ Đề và Chí Tu Học của cả hai giới Phật tử xuất gia và
tại gia. Sự xuất hiện nhiều chùa chiền
và tu viện là một hiện tượng tích cực và lành mạnh của Phật giáo. Tuy nhiên, giới xuất gia quý Thầy và Sư cô
đóng vai trò nào trong việc hướng dẫn tinh thần và giới Cư sĩ Phật giáo đóng
vai trò nào trong việc vận động vật chất để lập chùa, xây dựng tu viện mới là
điều quan trọng. Bất cứ một ngôi chùa
lập nên dù nguy nga hay khiêm tốn đến mức độ nào mà vẫn phát huy được hình ảnh
cao đẹp và uy nghi của Tam Bảo; duy trì được cốt lõi của tinh thần Lục Hòa
trong giới cư sĩ với nhau mới là điều đáng quý.
Phật giáo không chấp nhận lối ngụy biện “cứu cánh biện minh cho phương
tiện”. Ngược lại, trong phương tiện đã
mang mầm cứu cánh. Chùa chiền và cơ sở
vật chất tuy cũng chỉ là phương tiện, nhưng ngay dười mái chùa, hạt giống Từ
Bi, Trí Tuệ, Giải Thoát đã ươm mầm từ thiện ý, tâm đạo và việc làm của Tăng Ni
và Cư sĩ. Trong vai trò góp phần xây
dựng cơ sở vật chất làm phương tiện tu học, người cư sĩ là chỗ dựa vững chắc
của Tăng Ni trong vai trò hộ đạo để xác định được giới hạn hợp lý của nhu cầu,
khả năng và hoàn cảnh cụ thể hầu tránh được tình trạng cả Thầy lẫn Đệ tử đem
phương tiện làm cứu cánh; quên mục đích tu học để giải thoát và tự trói buộc
nhau vào cảnh nợ nần ngân hàng; đôn đáo lo chạy tiền trả nợ... “chùa”! Hậu quả trực tiếp là thay vì chú tâm tu học
thì người cư sĩ ngày lại ngày chỉ lo hô
hào, tổ chức gây quỹ dưới những hình
thức đượm màu tục lụy để tranh đua xây chùa to, đúc tượng lớn; thường xuyên
tiếp cận với nhu cầu vật chất mà xa lìa phẩm hạnh của đời sống tinh thần.
2. Vai trò đem đạo vào đời.
Một thiền sư Nhật Bản, tu sĩ Samurai
Kenji, có nhận xét: “ Đem đời vào đạo sẽ
làm cho đạo chao đảo chông chênh; nhưng đem đạo vào đời sẽ làm cho đời thanh
cao và vững chắc”. Đem đạo vào đời có
nghĩa là mang cái tâm Bồ Đề vào cuộc sống.
Kinh Hoa Nghiêm chỉ rõ: “Quên mất Tâm Bồ Đề mà tu hành các Thiện Pháp
thì gọi là hành động theo ma vương. Quên
mất còn thế, huống chi chưa phát!” (Hoa Nghiêm- Phẩm Phát Bồ Đề Tâm. Trí Quang dịch)
Giới cư sĩ đóng vai chiếc cầu bắc qua
giòng sông tâm ý và hành trạng để đưa đạo Phật vào cuộc đời. Đạo Phật và kinh điển nhà Phật không phải là
một kho tàng tri thức đóng khung bất biến trong gia tài kiến thức cổ truyền của
nhân loại. Trái lại, đạo Phật là một hệ
thống tư tưởng và nguyên tắc hành xử sinh động, không bị biến chất hay cô lập
với thời gian và hoàn cảnh. Đạo Phật
không nhằm chế ngự tư duy của nhân loại như hệ thống luận lý học Tây phương mà tiếp cận với cuộc đời thường
một cách bình đẳng và công minh. Từ
hàng quý tộc đến giới cùng đinh; từ hàng thức giả đến giới không biết chữ đều
là những chúng sanh có Phật tính và có khả năng giác ngộ. Bởi vậy, mọi người cư sĩ đều có tác dụng quan
trọng ngang nhau trong vai trò hộ đạo và hành đạo. Trách vụ làm cho đạo Phật sinh động trong môi
trường sống hiện thực trước hết là cách sống của chính người cư sĩ. Nhà tôn giáo học Mỹ, Willie Bretch, nhận xét:
“Bản chất của một tôn giáo thể hiện trong cách sống của tín đồ theo tôn giáo đó
sẽ mang khả năng truyền đạo mạnh mẽ và trực tiếp nhiều lần hơn là lý thuyết
kinh điển nằm chất đống dưới bệ thờ và trong thư viện” (Religious Nature, 2001)
Thực tế tại Mỹ và các nước phương Tây,
một gia đình Việt Nam có vợ chồng con cái theo nhiều đạo khác nhau không phải
là chuyện hiếm có đời nay. Cũng vậy, trong mọi cơ cấu đoàn thể cũng như tổ chức
và khu vực xã hội, Phật tử thường là một phần nhỏ hay lớn bên cạnh những người
theo các tôn giáo khác. Người ngoài đạo
Phật thường nhìn người Phật tử như là
hình ảnh tiêu biểu, phản ảnh trung thành tinh thần Phật giáo. Vì vậy, trách vụ hộ đạo tích cực đầu tiên của
người Cư sĩ Phật giáo là xây dựng một phong thái sống thích hợp với khái niệm
của một người Phật tử qua lời nói, sinh hoạt và cách ứng xử.
Nguyên tắc xử thế nhằm thu phục nhân
tâm thường được liệt kê dài lê thê trong các sách giáo khoa “học làm người” để
đạt đến nghệ thuật đắc nhân tâm. Nhưng
Cư sĩ không phải là người đi tìm đắc nhân tâm mà là người nuôi dưỡng và chia sẻ
Chân Tâm.
Muốn có sự hòa hợp với mọi người trong
cuộc sống cần phải có tấm lòng sống thật, không chấp cái danh hư huyễn. Muốn có sự gần gũi và thân thiện với mọi
người cần giảm thiểu tối đa thái độ thắc mắc, phê phán, lý sự mà giàu lòng cảm
thông chia sẻ và khiêm tốn. Không phải
gia đình nào cũng có cả vợ lẫn chồng và con cái đều là Phật tử. Không phải xã hội nào cũng chỉ có giới Phật
tử thuần nhất đến với nhau. Giới xuất gia
là tấm gương đạo hạnh đã đành. Nhưng
hình ảnh giới Phật tử tại gia, hai tay nâng lấy cả việc đời lẫn việc đạo, mới
chính là đại biểu đầy thuyết phục nhất để mang đạo vào đời.
3. Vai trò hộ trì Tam Bảo.
Hành động bảo vệ thường được thể hiện
dưới ba cách:
- Bảo thủ: Khư khư nắm giữ những gì đang có. Trong tôn giáo, thái độ này là quyết liệt nắm
giữ những tín điều như những nguyên tắc bất biến. Sợ sự xâm lấn từ bên ngoài và động cơ thay
đổi từ bên trong.
- Trung dung: Đồng thời bảo vệ và phát huy những giá trị
chính đáng. Trong tôn giáo, thái độ này
có một tác động tích cực, tạo được sức mạnh mới và giúp cho tôn giáo không bị
lỗi thời.
- Cấp tiến: Hoàn toàn đổi mới. Mạnh mẽ phá đổ cái cũ để xây dựng cái
mới. Trong tôn giáo, thái độ này thường
dẫn đến tình trạng cho sự ly khai giáo hội chính thống để xây dựng một hệ phái
mới.
Phật giáo, cũng giống như các tôn giáo
lớn với hàng chục triệu tín đồ, trải rộng qua nhiều vùng có lãnh thổ, chính
trị, văn hóa, xã hội và ngôn ngữ khác nhau trên toàn thế giới, ba khuynh hướng
bảo vệ đạo pháp nói trên cũng thường xuyên xảy ra đồng thời hay riêng lẻ.
Những khuynh hướng cực đoan, mang nặng
tính chất duy lý và bảo thủ không hợp với một tôn giáo lấy cái Tâm làm gốc như
đạo Phật. Vì vậy, khuynh hướng Trung
Dung được thể hiện phổ biến nhất trong vai trò hộ đạo và hành đạo của người Cư
sĩ Phật giáo.
Tuy thái độ trung dung được tôn trọng
và ưa chuộng, nhưng trong những thời
điểm và hoàn cảnh đặc biệt, người Cư sĩ Phật giáo cần phải đấu tranh tích cực
giữa “Kính” và “Chính”. Kính trọng một
người không có nghĩa là phải kính trọng luôn sự bất chính hay sai lầm của người
đó. Ví dụ: Kính Thầy không có nghĩa là phải thỏa hiệp
với những điều chưa đúng của Thầy; hoặc kính nể đạo hữu không có nghĩa là im
lặng đồng lõa với những điều sái trái của bạn đạo.
Bảo vệ là giữ gìn và tu hành là sửa
đổi. Không có một sự giữ gìn và sửa đổi
nào mà không tạo ra những hệ quả tất nhiên theo sau. Nghĩa là luôn luôn có sự tán đồng và bất đồng
trong tập thể. Sự mâu thuẫn có khi ở mức
độ tiềm tàng, nhưng cũng có khi bùng nổ đưa đến chỗ phân ly hay chia thành phe
nhóm. Hiện tượng có nhiều chùa chiền
trong một địa phương nhỏ bé và vị tu sĩ trụ trì chùa nầy chẳng hề bén mảng thăm
viếng chùa kia không phải là hiện tượng hiếm hoi tại nhiều vùng đất ở hải
ngoại. Nếu phải tu học trong một hoàn
cảnh phân hóa như thế, Cư sĩ Phật giáo
thường có một tư thế thuận lợi nhất để giúp đưa sinh hoạt các chùa cô lập đến
gần nhau. Bảo vệ Đạo Pháp không phải là
khư khư đến chùa nầy hay nhất tâm theo Thầy khác mà cần phát huy lòng kính
ngưỡng rộng lớn đối với Tam Bảo. Khi
trên đường tu học, người cư sĩ không lấy biên giới đất đai làm điểm tựa hay lấy
thành quách chùa chiền làm giới hạn thì hình ảnh Tam Bảo sẽ trở thành thế giới
tín ngưỡng không biên giới với mọi người.
4. Vai trò giáo dục.
Trong 49 năm hoá độ chúng sanh, đức
Phật đã xuất hiện như một vị Thầy trụ cột (Bổn Sư) bên cạnh Tăng đoàn tứ
chúng. Có thể nói, moat trong những vai
trò trọng điểm hàng đầu của Đạo Phật là giáo dục. Thông qua phương tiện giáo dục đạo Phật đã
giúp khai phóng con người từ “mê” đến “giác”,
từ cảm tính đến nhận thức ; và từ nhận thức đến hành động. Bởi vậy, hàng giáo phẩm xuất gia các cấp của Phật giáo đều là những vị Thầy (Sư: Tổ
sư, đại sư, thiền sư, ni sư). Những danh
tăng lỗi lạc và uyên bác trong lịch sử Phật giáo như Đạt Ma, Huyền Trang, Vạn
Hạnh, Viên Chiếu, Mãn Giác, Hương Hải… đều là những vị Thầy.
Giáo dục là phương tiện chủ lực trong
vai trò hoá đạo của Phật giáo.
Trong bối cảnh Phật giáo tại Hải
Ngoại, nhất là trong xã hội của các nước có nền giáo dục tiên tiến và mức độ
dân trí cao như các nước Âu Mỹ ngày nay, phương tiện giáo dục để hoằng dương
Phật pháp là một sự kết hợp tất yếu giữa Tín Tâm và Tri Thức. Có Tín Tâm mà thiếu tri thức thì con đường
học Phật rất dễ thiên về khuynh hướng bảo thủ, khép kín và vụ hình thức lễ
nghi. Ngược lại, có Tri Thức mà thiếu
Tín Tâm thì con đường học Phật dễ dàng thiên về khuynh hướng duy lý, phân hoá
và tùy tiện.
Tương lai Phật giáo và khả năng kế
thừa để duy trì và phát huy tinh thần Phật giáo của tuổi trẻ Việt Nam tại Hải
Ngoại cũng là mối quan tâm thiết yếu của thế hệ Phật tử đàn anh, kể cả hàng
xuất gia và tại gia. Theo thống kê của Viện Khảo sát các nhóm
chủng tộc tại Mỹ (M G R I) thì cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ thưộc vào hàng
khá “trẻ trung”. Có 68% tuổi trẻ
Việt Nam sinh sau 1975. Nhưng quan sát kỹ thành phần tuổi tác của
Phật tử đến sinh hoạt hay tu học đều đặn tại các chùa thì sẽ thấy rõ tỷ số tuổi
trẻ học Phật còn quá “mỏng” so với tỷ số dân cư. Nếu thử phóng tầm nhìn về một tương lai chừng
20 năm sau, khi thế hệ Phật tử đàn anh hiện tại trở thành quá khứ, thì thế hệ
đàn em tại hải ngoại có đủ “dày” và thuần thành để bảo vệ và phát huy đạo pháp
hay không? Gia Đình Phật Tử tuy là một
tổ chức tuổi trẻ đầy hứa hẹn nhưng có bao nhiêu chùa lớn hay nhỏ mới được xây
dựng trong những năm gần đây có được sự hiện diện của Gia Đình Phật Tử?
Bên cạnh quý Tăng Ni, giới Cư sĩ Phật giáo có một vị thế cốt cán và tiên phong
trong vai trò giáo dục, bao gồm:
- Góp phần hỗ trợ trong vấn đề đào tạo
tăng tài: Sự hưng thịnh của Phật giáo xư
a nay đều có một sự liên đới hữu cơ giữa tài năng (học thuật, nghiên cứu, sáng
tạo…) của giới Tăng Ni và công cuộc
hoằng dương Đạo Pháp. Hiện trạng tại Hải
Ngoại thì học vấn đóng một vai trò quan trọng khi nói đến tài năng. Chẳng hạn như các Mục sư quản nhiệm của nhiều
hệ phái Tin Lành đòi hỏi phải có văn bằng cao học hay tiến sĩ thần học. Tuy tinh thần Phật giáo không vụ bằng cấp,
nhưng hoàn cảnh địa lý và xã hội đã thay đổi.
Trong hoàn cảnh mới, vai trò của quý Tăng Ni càng nặng nề hơn. Bên cạnh trách vụ tu trì truyền thống quý
Tăng Ni còn phải đóng vai trò đối ngoại với xã hội đa chủng đang nhìn về Phật
giáo; vai trò giáo dục cho thế trẻ không thông tiếng Việt; vai trò làm chỗ dựa
tinh thần cho giới Phật tử tại gia đang tranh sống trong một môi trường xứ
người. Những vai trò đó, đòi hỏi quý
Thầy và quý Sư cô không chỉ thông thạo Kinh Tạng nội điển mà còn phải thông qua
quá trình học hỏi tại các nhà trường hay Học Viện nơi mình cư trú. Nếu giới Cư sĩ nhiệt tình gánh vác bớt một
số công việc thích hợp giúp quý Thầy, Cô có thì giờ và phương tiện đi học thì
đó cũng là một hành động gián tiếp góp phần đào tạo Tăng tài.
- Bắt nhịp cầu thế hệ: Giúp thế hệ
trẻ, mà trực tiếp nhất là con em của chính mình, hiểu Phật giáo và hành theo
tinh thần Phật giáo. Đồng thời tạo điều
kiện bảo trợ và phát triển những tổ chức Phật tử trẻ như Gia Đình Phật Tử,
Thanh niên Phật Tử…
Giáo dục là một lãnh vực rất đa
dạng. Đầu tư vào cơ sở vật chất dễ hơn
vì có kết quả nhìn thấy ngay trước mắt, nhưng đầu tư vào giáo dục thì có khi
kết quả chưa thấy liền, nhưng sẽ đâm hoa kết trái trong nhiều thế hệ tương lai.
Kết luận:
Rất có thể phát xuất từ tinh thần
trọng sĩ thái quá của văn hóa Á Đông “Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên...” nên khi nói
đến Tam Giáo (Nho- Phật -Lão) xã hội Việt Nam ta hay nói đến một thế giới “học
sĩ” gồm những nhân vật xa cách với sách vở bao quanh đầy mình. Cũng thế, đã có một thời, Phật giáo bị nhìn
một cách lệnh lạc: Hoặc là một Phật giáo
quá cao siêu với tam tạng kinh điển, với tám vạn bốn ngàn pháp môn vi diệu; với
những công án mây trời ngũ sắc tận đâu đâu.
Hoặc tệ hơn, một Phật giáo đầy mê tín với bùa chú, cờ phướn đèn lồng,
trống đánh kèn thổi để trừ ma yểm quỷ.
Hình ảnh đạo Phật lệnh lạc đó không ít thì nhiều, vẫn còn để lại những
dấu vết trong thời hiện tại.
Đã có nhiều tu sĩ, học giả, cư sĩ Phật
giáo bằng mọi phương tiện khả thi, cố đem Phật giáo đi vào cuộc đời hiện
thực. Đây là một tiến trình rất quan
trọng và cần thiết trong công tác Phật sự hộ đạo và hành đạo.
Càng ngày, người ta càng nhận ra rằng,
tuy Phật giáo cao siêu “vô thượng thậm thâm vi diệu pháp”, nhưng con đường khởi
thủy dẫn vào Phật giáo cũng chỉ là con đường đất chân quê mà mọi giới chúng
sanh, nếu có một tấm lòng, đều có thể bước đi trên nẻo đường đó một cách thoải
mái và nhẹ nhàng.
Người Cư sĩ Phật giáo phải là lớp
người “đưa đò” điển hình để trân trọng mời những người quan tâm đến Phật giáo
tìm đến Phật giáo một cách đơn giản.
Nếu Tăng Ni hoằng hóa Phật giáo bằng
kinh sách và những buổi thuyết pháp thì người
Phật tử tại gia phổ biến Phật giáo trong người thân và quần chúng bằng
chính cách sống cùng những lời thăm hỏi, chia sẻ và an ủi của mình. Trong lời kết luận về vai trò hộ đạo của
người Cư sĩ Phật giáo, thầy Thanh Từ nhận định rằng: “Giờ rãnh rỗi, Phật tử nói
chuyện thân mật trong gia đình, hoặc đi thăm người láng giềng đau yếu... đều là
những buổi thuyết pháp linh động của cư sĩ.
Cách ăn ở trong nhà, sự đối xử hàng xóm hợp đạo lý, ấy là bài thuyết
pháp sống của Phật tử tại gia. Phật tử
tại gia thực hiện được nhiệm vụ mình, mới thật là người hộ đạo chân chính”.
Hơn hai nghìn năm trước, đức Phật mỗi
khi truyền giới hay dạy một hạnh tu cho Phật tử tu tại gia đều dặn dò: “Người
tu tại gia giữ được rất khó vì nhiều nhân duyên ràng buộc” (Theo Kinh Ưu Bà
Tắc)
Cái khó vì hoàn cảnh của người Cư sĩ
Phật giáo đã có từ nghìn năm trước và nghìn năm sau vẫn còn khó. Nhiều khi cái khó không phải phát xuất tự nó
mà từ những khái niệm và định kiến mà
người ta mặc lên cho nó. Bởi vậy, người
Cư sĩ Phật giáo cùng lúc dấn bước trên hai con đường ngỡ như song hành nhưng
lại đòi hỏi hai trách vụ khác biệt: Đời
và Đạo. Hai con đường song song có cùng
một điểm gặp gỡ: Chân Tâm.
Trần Kiêm Đoàn (2003)
No comments:
Post a Comment